1910, RỜI MORELIA, MICHOACÁN

Vào năm 1910, María rời nông trại nơi bà sống với gia đình gần Morelia, Michoacán, Mễ Tây Cơ. Lúc đó bà 14 tuổi. Trong khoảng thời gian từ năm 1910 đến 1920, hơn một triệu người Mễ Tây Cơ tiến bắc đến vùng Tây Nam nước Mỹ vừa bị chiếm đoạt. Cuộc Cách Mạng đã bùng nổ và chế độ độc tài Porfiriato Diáz đã quốc hữu hoá đất công để dùng cho lợi ích nước ngoài (kể cả Hoa Kỳ), và đồng thời ép nhiều nông dân phải bỏ đất đi tìm việc ở nơi khác. Với nhiều trạm tại các thị trấn dọc biên giới có đường nối đến những vùng đông dân nhất của Mễ Tây Cơ, tuyến Sunset của công ty Xe Lửa Southern Pacific cung cấp phương tiện chuyên chở ra bắc cho các công nhân Mễ Tây Cơ. Để cung cấp đầy đủ lực lượng lao động giá rẻ cho các công nghiệp đang phát triển tại vùng Tây Nam nước Mỹ như đường sắt, đào mỏ, và nông nghiệp, các phu lao động người Mễ Tây Cơ được miễn thuế nhập cảnh theo đầu người và điều khoản đòi hỏi phải biết đọc.

 

Từ Mễ Tây Cơ, điểm chính để vào nước Mỹ là El Paso, Texas. Chồng của María là một trong những người chủ của một quán rượu nhỏ tại Juárez, Mễ Tây Cơ, ngay bên kia biên giới đối diện với El Paso. Năm 1911, bà đến sống với ông và ngay sau đó, sinh ra con trai đầu lòng là Onofre. Bà thường qua El Paso làm việc dọn dẹp nhà cửa. Vào năm 1914, tuy đang mang thai đứa con thứ nhì, bà quyết định bỏ chồng. Trong thời gian này, gần một phần ba các gia đình người Mỹ gốc Mễ Tây Cơ tại các khu đô thị vùng Tây Nam có phụ nữ đứng đầu, đa số vì việc làm của công nhân nhập cư thường gây ra chuyện vợ chồng bị phân ly dài hạn và việc đàn ông bỏ bê gia đình.

 

1919, PORTLAND, COLORADO

 

Trong chuyến đi băng qua New Mexico đến Avon, Colorado, María và các con sống trong toa xe chở hàng hoá và làm việc cho những enganchistas, tứcchủ thầu lao động gọi theo tiếng lóng, lấy từ động từ enganchar (móc nối). Con trai kế của bà, Guadalupe, được sinh năm 1915. Qua nhiều năm, họ đi từ nông trại này đến nông trại khác làm việc vào mùa gặt hái.

 

Chán ngán cuộc sống du mục, María dừng chân tại Portland, một thị trấn tại vùng đào mỏ miền nam Colorado. Bà sinh ra Charlie, con trai thứ ba, năm 1919. Bà cho các phu đào mỏ ở trọ, rồi nấu ăn, giặt quần áo cho họ để sinh sống. Giới đào mỏ tại Colorado vẫn muốn tổ chức thành hiệp đoàn từ năm 1883. Vụ Tàn Sát Ludlow vào năm 1914 (dính líu đến cả những phu đào mỏ người Ý, Hy Lạp, Slavic, và Mễ Tây Cơ cùng gia đình họ) kết thúc với năm mươi người bị mất mạng và gây nên sự hiềm khích giữa chính phủ liên bang và các chủ mỏ một bên, và bên kia là những phu làm mỏ và gia đình của họ.

 

Một ngày kia, trong lúc các phu đào mỏ đang đi làm, nhóm Lính Canh tìm thấy bộ máy chưng rượu tại nhà của María. Tuy đó là máy của một trong những phu đào mỏ, María bị buộc tội oan và bắt bỏ tù tại Pueblo mấy tuần liền. Onofre và Guadalupe phải đứng ngoài nhà tù đợi mẹ về và được gái điếm tại đó cho ăn uống, trong khi bé Charlie được hàng xóm trông nom ở nhà. Sau khi được thả, María gom các con cái, của cải, và quay về Avon sống.

 

1927, TRỞ VỀ MORELIA

 

Tại Avon, María thuyết phục được chủ đất cho bà thuê một lô để cấy rẽ. Bà thuê nhân công trồng và hái rau cải, cung cấp chỗ ăn ở và lấy một phần nhỏ tiền lãi. Sau một thời gian, bà mua được chiếc xe du lịch và chiếc xe tải để chở rau đến chợ.

 

Vào năm 1927, em của María tên Francisco đến Avon tìm bà và thuyết phục được bà về thăm người mẹ vẫn còn sống và đang ở Morelia. Francisco mang cho María những lá thư mẹ bà viết về nỗi buồn của bà vì vắng bóng con gái. Hai chị em đi xe lửa đến Morelia, nơi đường rày đã bị bom phá huỷ trong cuộc Cách Mạng, và cưỡi ngựa về nông trại. Ngày về thăm mẹ, María mặc áo đầm ngắn và bôi son để mọi người biết bà từ Mỹ về. Gia đình bà mở bữa tiệc lớn để ăn mừng và muốn giữ bà ở lại nhưng bà nhất quyết quay về Colorado.

 

Đạo Luật Nhập Cư năm 1921 và 1924 giới hạn rất khắt khe sự di dân của người Nam và Đông Âu cùng người Á Châu. Để lấy lòng cử tri, những nghị sĩ trong Quốc Hội phản đối việc dùng phu lao động người Mễ Tây Cơ, trong khi các nhà công nghiệp ủng hộ việc này vì phải trả lương thấp hơn. Người Mễ Tây Cơ luôn bị báo chí phỉ báng, nhưng trên thực tế, họ vẫn tiếp ứng cho nhu cầu nhân công do sự thay đổi thất thường của nền kinh tế và chính sách nhập cư gây ra. Gia đình María lại dọn qua Mỹ, làm nghề bán báo ở El Paso để lấy tiền về Avon.

 

1930, CHUYÊN CHỞ RAU QUẢ, NGOẠI Ô PHOENIX, ARIZONA

 

Từ nhà bà tại Avon, María thấy được khu đóng trại của nhóm người đi toa xe hàng hoá, nơi những người làm công cho mấy enganchista phơi quần áo. Những dây phơi đó thưa dần khi những công nhân tìm được việc lương cao hơn tại thành phố. Một số bạn của María quyết định qua Arizona sống và rủ bà đi với họ. Onofre, giờ gọi là Frank, lái xe tải và María lái xe thường. Gia đình bà sống ít lâu tại Tolleson, rồi Glendale và Florence, Arizona. Để kiếm tiền sinh sống, họ chuyên chở rau quả từ kho chất đến các chợ trong vùng.

 

Vào năm 1928, María cưới một người nướng bánh tên Ylario Velasquez. Năm sau đó, bà sinh ra cô con gái duy nhất, Natalia. Gia đình chuyển qua Eighth Street tại Phoenix. María dọn nhà và giặt quần áo cho một tú bà gần đó. Nhờ bà làm việc chăm chỉ và khéo tay, quần áo luôn ủi nếp thẳng tắp, khăn bàn và áo sơ-mi giặt sạch trắng, và đồ đan thêu đẹp tỉ mỉ, bà có thêm nhiều khách hàng mới. María có tấm khăn trải giường đan móc với những ô vuông nhỏ thêu hình hoa hồng ở giữa. Dù nhiều người hỏi mua, bà nhất định không bán. Bà cất nó chung với những đồ dùng cá nhân khác trong cái rương gỗ sơn xanh lá cây đậm. Đến lúc cưới Ylario thì María đã quen sống tự lập, và sau vài năm, họ chia tay. Bà vẫn ở lại chứ không dọn đi nơi khác, lấy Phoenix làm nhà lâu hơn tất cả các nơi bà từng sống. Nhờ đó, Natalia được gặp bố thường xuyên lúc bé, ghé qua cửa hàng nướng bánh thăm bố khi đi học về.

 

1945, ALISO VILLAGE, BOYLE HEIGHTS, CALIFORNIA

 

Trong Thế Chiến Thứ II, Frank đánh trận bên Đức, còn Charlie là thuỷ thủ đóng tại San Diego. Guadalupe, giờ gọi là John, cùng vợ Dolores, và các con Anita, John Jr., và Robert chuyển đến Boyle Heights năm 1942. María thường đi Los Angeles và San Diego để thăm con.

 

Việc giam giữ các người Mỹ gốc Nhật và lệnh động viên năm 1942 gây ra nạn thiếu hụt nhân công và đưa các phụ nữ và người da màu vào lực lượng công nhân cho ngành công nghiệp phòng thủ. Chương trình Braceros, một thoả thuận giữa hai chính phủ Mỹ và Mễ Tây Cơ, mang 100,000 công nhân Mễ Tây Cơ đến California. John làm thợ hàn cho xưởng tàu tại San Pedro và gia đình anh ta sống trong khu “war effort housing,” tức khu chung cư dành cho những người có công việc hỗ trợ các nỗ lực quân sự, và sau cuộc thế chiến, trở thành khu cho người thu nhập thấp ở.

 

Dolores và María dành nhiều thời gian cho nhau. Mỗi buổi sáng, họ thường uống cà phê với nhau, trao đổi những gì họ đã trải qua trong cuộc sống. John học luật ban đêm, còn ban ngày thì làm việc với LULAC trong nỗ lực xoá bỏ sự phân chia theo chủng tộc tại hệ thống trường công của Santa Ana. Thái độ thù nghịch của phong trào “hồi hương” vẫn còn đó. Bén lửa từ cuộc Khủng Hoảng Kinh Tế, phong trào hồi hương “đưa trả” hàng trăm ngàn người Mễ Tây Cơ và công dân Mỹ gốc Mễ Tây Cơ về xứ này. John phát hiện rằng Anita và các

trẻ em Chicano khác thường bị phạt theo cách đánh đập trong lớp nếu nói tiếng Tây Ban Nha và bị cấm không được bơi trong hồ bơi công cộng trừ những ngày chỉ định.

 

1950, SAN DIEGO, CALIFORNIA

 

Vào năm 1949, María rời Phoenix để qua California sống với các con trai vì bà bị bệnh. Dolores và vợ Charlie, Lupe, chăm sóc bà khi bệnh tình bà xuống cấp trầm trọng. María giúp Dolores, người bị lãng tai vì chứng bệnh thời còn bé. Lupe dần dần cũng thân với María tuy bản chất khác Dolores. Lupe thích huyên náo, ồn ào hơn.

 

María ít kể chuyện đời mình cho các cháu nghe. Bà rất e dè về việc có nhiều đời chồng và thời bị bỏ tù tại Pueblo, nhưng các cháu lại nhớ bà là bà nội rất thương các cháu nhưng nghiêm nghị, và bà có tài biến mảnh áo cũ thành chiếc áo mới trắng tinh, có thêu hoa văn tỉ mỉ. Trên đường về Juárez năm 1910, María sống với ông bà ngoại gần biên giới một thời gian. Họ rất tử tế với bà, và để đáp lại lòng tốt của họ, bà cho các con theo họ Gonzales của ông bà. María từ trần năm 1952 trong bệnh viện tại Los Angeles. Sức khoẻ suy yếu vì căn bệnh có từ lâu năm, bà còn sống sót sau khi được giải phẫu, nhưng chỉ được mấy tiếng rồi mất.